biến đổi khí hậu – Doisongvanhoa.net https://doisongvanhoa.net Trang thông tin đời sống văn hóa Wed, 01 Oct 2025 10:38:07 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doisongvanhoa/2025/08/Kinhtethegioi-1.svg biến đổi khí hậu – Doisongvanhoa.net https://doisongvanhoa.net 32 32 Chuyển đổi sang xe điện – xu hướng tất yếu cho phát triển bền vững đô thị https://doisongvanhoa.net/chuyen-doi-sang-xe-dien-xu-huong-tat-yeu-cho-phat-trien-ben-vung-do-thi/ Wed, 01 Oct 2025 10:38:05 +0000 https://doisongvanhoa.net/chuyen-doi-sang-xe-dien-xu-huong-tat-yeu-cho-phat-trien-ben-vung-do-thi/

Chuyển đổi sang xe điện – Giải pháp bền vững cho đô thị Hà Nội

Trong bối cảnh ô nhiễm không khí và biến đổi khí hậu đang trở thành vấn đề nghiêm trọng trên toàn cầu, việc chuyển đổi từ phương tiện chạy xăng sang xe điện đang trở thành xu hướng không thể đảo ngược, đặc biệt tại các đô thị lớn như Hà Nội. Với mật độ dân cư đông đúc, tình trạng ùn tắc giao thông thường xuyên và mức độ ô nhiễm vượt ngưỡng cho phép, Thủ đô cần một giải pháp bền vững hơn, và xe điện chính là câu trả lời.

Ô nhiễm không khí tại Hà Nội đang diễn biến theo chiều hướng xấu, nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng và các hoạt động phát triển kinh tế-xã hội. Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, ô nhiễm không khí tại Hà Nội chủ yếu là ô nhiễm bụi PM2.5 – một chất gây hại vô hình nhưng có thể gây ra nhiều bệnh về hô hấp, tim mạch, đặc biệt là với đối tượng nhạy cảm như người già, trẻ em. Nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường không khí ở Hà Nội được xác định là do các nguồn thải từ hoạt động giao thông, xây dựng, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và các hoạt động dân sinh khác. Đặc biệt, với hơn 770 nghìn xe ô tô, gần 6 triệu xe máy sử dụng động cơ đốt trong lưu thông hằng ngày là nguồn phát thải khí nhà kính gây ô nhiễm môi trường, trực tiếp khiến cho tình trạng ô nhiễm môi trường không khí ngày càng tăng.

Xe điện không phát thải khi vận hành, giúp giảm thiểu đáng kể nồng độ khí độc hại, góp phần cải thiện bầu không khí đô thị. Bên cạnh đó, giá xăng dầu biến động liên tục, trong khi điện năng có chi phí ổn định và rẻ hơn nhiều. Theo tính toán, chi phí sạc điện cho xe máy điện chỉ bằng 1/10 so với đổ xăng cho cùng quãng đường di chuyển. Chính phủ và thành phố Hà Nội đã có nhiều chính sách khuyến khích sử dụng xe điện, như giảm thuế, hỗ trợ lắp đặt trạm sạc, và đề xuất lộ trình cấm xe xăng trong tương lai. Nhiều doanh nghiệp cũng đầu tư vào hạ tầng sạc điện công cộng, giúp người dân tiếp cận dễ dàng hơn.

Các quốc gia phát triển như Mỹ, châu Âu, Trung Quốc đã đặt mục tiêu dừng bán xe xăng trong thập kỷ tới. Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc cách mạng này, nhất là khi Hà Nội đang hướng tới mục tiêu trở thành thành phố xanh, thông minh. Việc chuyển sang xe điện không chỉ là lựa chọn mà là yêu cầu cấp thiết để phát triển bền vững.

Xe điện không chỉ là phương tiện của tương lai mà đã trở thành hiện tại. Đối với Hà Nội, nơi áp lực về giao thông và ô nhiễm ngày càng gia tăng, việc chuyển đổi sang xe điện là tất yếu để bảo vệ sức khỏe cộng đồng, tiết kiệm chi phí và hướng tới một đô thị văn minh, hiện đại. Việc chuyển đổi này cũng đòi hỏi sự tham gia và hỗ trợ của tất cả các bên, bao gồm chính phủ, doanh nghiệp và người dân. Chỉ khi tất cả cùng chung tay, Hà Nội mới có thể trở thành một đô thị bền vững, xanh và sạch.

Hiện tại, các doanh nghiệp đang tích cực đầu tư vào hạ tầng sạc điện công cộng, giúp người dân có thể dễ dàng tiếp cận và sử dụng xe điện. Đồng thời, các chính sách hỗ trợ của chính phủ cũng đang được triển khai để khuyến khích người dân chuyển đổi sang xe điện. Với sự hỗ trợ này, người dân có thể yên tâm khi lựa chọn xe điện làm phương tiện di chuyển hàng ngày.

Trong tương lai, Hà Nội sẽ tiếp tục triển khai các biện pháp để thúc đẩy việc sử dụng xe điện, bao gồm việc xây dựng thêm trạm sạc điện công cộng và áp dụng các chính sách hỗ trợ người dân. Với những nỗ lực này, Hà Nội sẽ trở thành một trong những thành phố đi đầu trong việc sử dụng xe điện và bảo vệ môi trường.

]]>
Tuy thời tiết có thể oi nhiệt nhưng không oi trong khi tâm hồn không bị tác động những cảm nhận của các giác quan https://doisongvanhoa.net/tuy-thoi-tiet-co-the-oi-nhiet-nhung-khong-oi-trong-khi-tam-hon-khong-bi-tac-dong-nhung-cam-nhan-cua-cac-giac-quan/ Sun, 21 Sep 2025 04:19:58 +0000 https://doisongvanhoa.net/tuy-thoi-tiet-co-the-oi-nhiet-nhung-khong-oi-trong-khi-tam-hon-khong-bi-tac-dong-nhung-cam-nhan-cua-cac-giac-quan/

Biến đổi khí hậu và sóng nhiệt đang trở thành những thách thức nghiêm trọng đối với khả năng chịu đựng của con người. Mới đây, tại Hà Nội và các tỉnh thành khác ở đồng bằng Bắc Bộ, người dân đã trải qua một đợt sóng nhiệt nghiêm trọng vào đầu hè năm 2025, với nhiệt độ lên đến trên 40 độ C và độ ẩm từ 40-45%. Đường phố trở nên vắng vẻ hơn, người giao hàng, bán hàng rong, bảo vệ… tìm kiếm bóng cây ven đường để tạm thời trú ẩn. Những giọt mồ hôi chưa kịp rơi đã bốc hơi trên chiếc áo chống nắng khô giòn.

Xe ôm công nghệ và người giao hàng trong nắng nóng. Ảnh: Laodong.com.vn
Xe ôm công nghệ và người giao hàng trong nắng nóng. Ảnh: Laodong.com.vn
Những người bán hàng rong cũng thuộc nhóm dễ bị tổn thương vì sóng nhiệt. Ảnh: Shutterstock
Những người bán hàng rong cũng thuộc nhóm dễ bị tổn thương vì sóng nhiệt. Ảnh: Shutterstock

Sóng nhiệt không chỉ xảy ra ở Việt Nam mà còn trên toàn thế giới.

Mùa gặt ở ĐBSCL. Ảnh: Shutterstock
Mùa gặt ở ĐBSCL. Ảnh: Shutterstock
]]>
Đại học Huế tổ chức Hội thảo quốc tế về công nghệ và quản lý xanh https://doisongvanhoa.net/dai-hoc-hue-to-chuc-hoi-thao-quoc-te-ve-cong-nghe-va-quan-ly-xanh/ Sat, 30 Aug 2025 12:51:17 +0000 https://doisongvanhoa.net/dai-hoc-hue-to-chuc-hoi-thao-quoc-te-ve-cong-nghe-va-quan-ly-xanh/

Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế vừa tổ chức thành công Hội thảo quốc tế Công nghệ và Quản lý Xanh (IFGTM) lần thứ 15, năm 2025. Sự kiện này đã tập tụ các nhà khoa học, hoạch định chính sách và quản lý để thảo luận và chia sẻ những nghiên cứu mới nhất về bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu.

Hội thảo còn có sự góp mặt của nhiều nhà nghiên cứu trẻ. (Ảnh: Đại Dương)
Hội thảo còn có sự góp mặt của nhiều nhà nghiên cứu trẻ. (Ảnh: Đại Dương)

Với chủ đề ‘Các giải pháp quản lý và công nghệ xanh hướng tới phát triển bền vững và phát thải ròng bằng 0’, hội thảo đã trở thành nơi hội tụ của các chuyên gia từ nhiều quốc gia. Các chuyên gia và nhà nghiên cứu đã trình bày và thảo luận về các giải pháp và công nghệ mới nhất trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

Nhiều đại biểu quốc tế uy tín trong lĩnh vực nghiên cứu môi trường tham dự tại hội thảo.
Nhiều đại biểu quốc tế uy tín trong lĩnh vực nghiên cứu môi trường tham dự tại hội thảo.

Hội thảo IFGTM 2025 được tổ chức thành 1 phiên toàn thể và 3 phiên chuyên đề, với hơn 24 báo cáo khoa học trình bày. Trong đó, phiên toàn thể có sự tham gia của các diễn giả mời là các giáo sư hàng đầu từ Nhật Bản, Singapore và Việt Nam. Bên cạnh đó, còn có 27 báo cáo treo (poster), đa số là của các nhà nghiên cứu trẻ và nghiên cứu sinh.

PGS.TS Võ Thanh Tùng, Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế chào mừng khai mạc Hội thảo quốc tế Công nghệ và Quản lý Xanh (IFGTM) lần thứ 15.
PGS.TS Võ Thanh Tùng, Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế chào mừng khai mạc Hội thảo quốc tế Công nghệ và Quản lý Xanh (IFGTM) lần thứ 15.

Theo PGS.TS Võ Thanh Tùng, Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế, chủ đề của IFGTM 2025 phản ánh xu hướng toàn cầu về chuyển đổi xanh và nỗ lực đạt đến phát thải ròng khí nhà kính bằng không (Net-Zero). Các báo cáo trình bày tại hội thảo tập trung vào các nhóm nội dung: Các giải pháp công nghệ xanh trong kiểm soát ô nhiễm; Các công cụ và giải pháp tiên tiến cho quản lý tài nguyên và môi trường; Năng lượng và biến đổi khí hậu; Kết nối học thuật – doanh nghiệp – cộng đồng trong tiến trình đạt mục tiêu Net-Zero.

GS.TS Huỳnh Trung Hải, Chủ tịch Mạng lưới Nghiên cứu Công nghệ và Quản lý Xanh (CGTMR) phát biểu.
GS.TS Huỳnh Trung Hải, Chủ tịch Mạng lưới Nghiên cứu Công nghệ và Quản lý Xanh (CGTMR) phát biểu.

Tất cả các báo cáo có chất lượng sẽ trải qua quá trình bình duyệt để công bố trên Kỷ yếu thuộc hệ thống của Nhà xuất bản Trans Tech Publications và trên các tạp chí: Khoa học Đại học Huế: Khoa học Tự nhiên, Khoa học và Công nghệ Trường Đại học Khoa học.

Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế (trực tiếp là Khoa Môi trường) là thành viên tích cực của mạng lưới CGTMR từ những ngày đầu thành lập, đã từng đăng cai tổ chức thành công IFGTM 2015. Đào tạo, nghiên cứu và hợp tác quốc tế về môi trường là một trong các thế mạnh của Trường nhiều năm qua.

IFGTM là diễn đàn khoa học thường niên của Mạng lưới Nghiên cứu Công nghệ và Quản lý Xanh (CGTMR) – mạng lưới bao gồm các đơn vị (Trường, Viện) có đào tạo và nghiên cứu về môi trường trong nước và các đối tác quốc tế. Hiện CGTMR có 17 đơn vị thành viên trong nước và 4 đối tác quốc tế. Kể từ khi hình thành đến nay, đã có 14 hội thảo IFGTM được các đơn vị khắp các miền đất nước đăng cai tổ chức.

]]>
Biến đổi khí hậu ‘đe dọa’ ngành thời trang và chuỗi cung ứng toàn cầu https://doisongvanhoa.net/bien-doi-khi-hau-de-doa-nganh-thoi-trang-va-chuoi-cung-ung-toan-cau/ Sun, 10 Aug 2025 12:20:13 +0000 https://doisongvanhoa.net/bien-doi-khi-hau-de-doa-nganh-thoi-trang-va-chuoi-cung-ung-toan-cau/

Biến đổi khí hậu đang tác động mạnh mẽ đến ngành thời trang trên toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Ngành thời trang không chỉ đóng góp vào lượng phát thải carbon lớn mà còn là một trong những ngành dễ bị tổn thương nhất trước những biến đổi thời tiết cực đoan. Từ khâu sản xuất, vận hành đến kỳ vọng của thị trường xuất khẩu, ngành thời trang buộc phải thích nghi với những thay đổi để đảm bảo sự tồn tại và phát triển.

Các loại sợi tự nhiên như bông, len, cashmere phụ thuộc vào điều kiện nhiệt độ ổn định. Khi điều kiện thời tiết thất thường tại các quốc gia sản xuất sợi chủ lực như Ấn Độ, Trung Quốc hay Mông Cổ, mùa vụ bị ảnh hưởng, dẫn đến khả năng cung ứng lẫn chi phí đầu vào đều biến động. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng mà còn làm tăng chi phí sản xuất và giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp thời trang.

Khí hậu nóng lên, thời trang chịu lạnh
Khí hậu nóng lên, thời trang chịu lạnh

Ngành dệt may Việt Nam, với kim ngạch xuất khẩu hơn 40 tỷ USD mỗi năm, cũng không ngoại lệ. Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu, và biến động về thời tiết tại các quốc gia khác đồng nghĩa với chi phí đầu vào tăng, thời gian giao hàng kéo dài và nguy cơ chậm tiến độ sản xuất cho các đơn hàng xuất khẩu lớn. Do đó, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần có chiến lược đa dạng hóa nguồn cung ứng và đầu tư vào công nghệ để giảm thiểu rủi ro.

Không chỉ chuỗi cung ứng, hành vi tiêu dùng cũng bắt đầu thay đổi theo thời tiết. Mùa đông ngắn hơn dẫn đến sức tiêu thụ của các sản phẩm thời trang mùa lạnh giảm xuống, trong khi mùa hè kéo dài làm tăng nhu cầu về quần áo nhẹ, thoáng mát. Người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến các sản phẩm thời trang bền vững, thân thiện với môi trường. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp thời trang phải thay đổi chiến lược sản xuất và kinh doanh để đáp ứng nhu cầu của thị trường.

Nhiều tập đoàn thời trang lớn như Kering, Adidas hay Hermès đã bắt đầu tích hợp rủi ro khí hậu vào chiến lược vận hành. Họ đầu tư vào các công nghệ mới để giảm thiểu tác động môi trường, chẳng hạn như sử dụng năng lượng tái tạo, giảm thiểu chất thải và phát triển các sản phẩm thời trang bền vững. Tại Việt Nam, các doanh nghiệp dệt may cũng đang từng bước thích ứng, với một số doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất sợi tái chế, thân thiện môi trường và sắp xếp lại mô hình sản xuất.

Tuy nhiên, mức độ sẵn sàng vẫn còn hạn chế và phần lớn doanh nghiệp mới dừng lại ở các giải pháp tình huống. Trong khi đó, các thị trường xuất khẩu như EU đang yêu cầu ngày càng cao về minh bạch chuỗi cung ứng và báo cáo tác động môi trường. Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phải chủ động hơn trong việc xây dựng chiến lược phát triển bền vững để có thể tiếp cận được với các thị trường xuất khẩu lớn.

Biến đổi khí hậu đang tạo ra thách thức lớn cho ngành thời trang, nhưng cũng mang lại cơ hội cho các doanh nghiệp có thể thích nghi và thay đổi để đảm bảo sự tồn tại và phát triển trong bối cảnh mới. Các doanh nghiệp cần phải nhận thức được rủi ro và cơ hội để có thể chuyển đổi và phát triển bền vững. Bằng cách đầu tư vào công nghệ, đa dạng hóa nguồn cung ứng và phát triển các sản phẩm thời trang bền vững, các doanh nghiệp có thể giảm thiểu rủi ro và tận dụng cơ hội để phát triển trong bối cảnh biến đổi khí hậu.

Các chuyên gia dự báo rằng, trong tương lai, ngành thời trang sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức hơn nữa do biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, với sự chủ động và sáng tạo, các doanh nghiệp có thể biến những thách thức này thành cơ hội để phát triển bền vững. Việc Kering, Adidas và Hermès thực hiện các chiến lược phát triển bền vững là một ví dụ điển hình cho các doanh nghiệp khác. Bằng cách học hỏi và áp dụng các mô hình kinh doanh mới, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có thể đảm bảo sự tồn tại và phát triển trong bối cảnh biến đổi khí hậu.

]]>
Việt Nam – châu Phi tìm cơ hội hợp tác nông nghiệp https://doisongvanhoa.net/viet-nam-chau-phi-tim-co-hoi-hop-tac-nong-nghiep/ Sun, 27 Jul 2025 01:15:42 +0000 https://doisongvanhoa.net/viet-nam-chau-phi-tim-co-hoi-hop-tac-nong-nghiep/

Nhật báo Cresus Algeria gần đây đã có một bài viết đánh giá cao những thành tựu phát triển ấn tượng của Việt Nam, đồng thời bày tỏ kỳ vọng rằng chuyến thăm các nước châu Phi của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn sắp tới sẽ mở ra cơ hội để nâng tầm hợp tác giữa Việt Nam và châu Phi.

Theo bài viết, Việt Nam đang nổi lên như một ‘điểm đến tri thức’ trong lĩnh vực phát triển nông nghiệp và nông thôn, dựa trên giá trị bản địa, chuỗi giá trị cộng đồng và hội nhập thương mại quốc tế. Với hơn 60% dân số sống ở khu vực nông thôn, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu ấn tượng trong gần 40 năm đổi mới. Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam đạt 62,5 tỷ USD, trong khi 6 tháng đầu năm 2025 đạt 33,84 tỷ USD, tăng gần 15% so với cùng kỳ. Hiện nay, Việt Nam đang đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp nhằm gia tăng giá trị gia tăng, nhấn mạnh vào tính bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển nông nghiệp thông minh.

Đặc biệt, chương trình ‘Mỗi xã một sản phẩm’ (OCOP) ở Việt Nam không chỉ là một thương hiệu, mà còn là mô hình tích hợp giữa Nhà nước, doanh nghiệp, hợp tác xã và cộng đồng trong một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Tác giả đánh giá cao những đề xuất của Việt Nam với hợp tác Nam-Nam dựa trên 4 trụ cột do FAO đề ra: ‘cải thiện sản xuất, dinh dưỡng, môi trường và đời sống, không để ai bị bỏ lại phía sau’. Bài viết cũng nhắc lại lời kêu gọi của Việt Nam đối với các tổ chức quốc tế, thể chế tài chính, các đối tác song phương và đa phương tăng cường hỗ trợ hợp tác Nam-Nam nhằm triển khai hiệu quả chương trình OCOP.

Tác giả bày tỏ hy vọng Việt Nam, với tư cách là quốc gia có nền nông nghiệp phát triển, có nhiều kinh nghiệm quý báu trong giảm phát thải nông nghiệp, có thể hợp tác cùng thắng với các nước anh em châu Phi. Đặc biệt, các sản phẩm Halal của Việt Nam, nhất là những thương hiệu đã chứng minh được chất lượng tại các thị trường tiêu chuẩn thực phẩm Halal cao như Các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất, Malaysia và Indonesia, sẽ sớm vượt qua các thách thức hiện hữu để xuất hiện rộng rãi hơn tại thị trường châu Phi.

Việc mở đường bay thẳng đầu tiên giữa Việt Nam và châu Phi được xem là khởi đầu mới để các bên tiến đến hợp tác cùng thắng. Chuyến bay ET0678 của Ethiopian Airlines đã khai trương chính thức đường bay kết nối hai thủ đô, tạo điều kiện cho hoạt động du lịch, thương mại và giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và châu Phi.

Tờ nhật báo bày tỏ sự tin tưởng rằng quan hệ truyền thống tốt đẹp giữa Việt Nam và các nước bạn bè châu Phi sẽ là điểm tựa để nâng tầm hợp tác Việt Nam – châu Phi thời gian tới. Chuyến thăm cấp cao của Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Trần Thanh Mẫn tới các nước châu Phi vào cuối tháng 7/2025 được kỳ vọng sẽ khởi động lại những kết nối lịch sử và cùng nhau mở ra triển vọng hợp tác sâu rộng thời gian tới.

Tác giả tin tưởng rằng người Việt Nam với tấm lòng rộng mở, coi trọng đoàn kết quốc tế, sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm quý báu, đặc biệt trong xóa đói giảm nghèo, thu hút đầu tư và phát triển đất nước. Bài viết nhấn mạnh rằng trong bối cảnh đó, Việt Nam và châu Phi cần tiếp tục củng cố lòng tin chính trị, tăng cường trao đổi đoàn cấp cao thường xuyên, thúc đẩy đàm phán các hiệp định cơ bản.

Cuối bài viết, tác giả liên tưởng rằng không có lý do gì mà những dân tộc đã cùng nhau đánh đổ bè lũ thực dân, đế quốc lại không thể sát cánh bên nhau trong phát triển kinh tế, hướng tới thịnh vượng và phát triển.

]]>
Hành động xanh: Trồng rừng và bảo vệ Trái đất https://doisongvanhoa.net/hanh-dong-xanh-trong-rung-va-bao-ve-trai-dat/ Fri, 04 Jul 2025 16:24:54 +0000 https://doisongvanhoa.net/?p=16731

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng, việc trồng rừng đã trở thành một giải pháp quan trọng để bảo vệ môi trường và giáo dục cộng đồng về tầm quan trọng của bảo vệ thiên nhiên.

Tầm quan trọng của rừng trong bảo vệ môi trường

Theo báo cáo mới nhất từ Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO), tháng 1/2025 ghi nhận mức nhiệt toàn cầu cao kỷ lục, tăng 1,75°C so với thời kỳ tiền công nghiệp. Bắc Cực được dự đoán sẽ tiếp tục nóng lên với tốc độ gấp ba lần mức trung bình toàn cầu, đẩy nhanh quá trình tan băng và khiến mực nước biển dâng cao.

Theo Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP), nếu không có biện pháp can thiệp, số vụ cháy rừng toàn cầu có thể tăng 30% vào năm 2050. Biến đổi khí hậu không còn là dự báo mà đã hiện diện rõ ràng qua những trận mưa trái mùa và đợt nắng nóng kỷ lục.

Trồng rừng – giải pháp bền vững

Trồng rừng là giải pháp khí hậu tự nhiên, nổi lên như một trong những biện pháp hiệu quả, bền vững và tiết kiệm nhất. Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) ước tính rừng hấp thụ 2,6 tỷ tấn CO₂ mỗi năm. Chi phí trồng rừng chỉ khoảng 10 USD cho mỗi tấn CO₂, rẻ hơn nhiều so với các công nghệ hiện đại.

Hướng đến các giải pháp dựa vào thiên nhiên là lựa chọn hiệu quả và bền vững. Vì vậy, sáng 7/6, tại Khu bảo tồn Thiên nhiên – Văn hóa Đồng Nai, hơn 120 tình nguyện viên từ khắp nơi đã cùng nhau trồng 450 cây gỗ bản địa.

Bạn trẻ chọn leo núi để hiểu thiên nhiên và kết nối tâm hồn

Bạn trẻ chọn leo núi để hiểu thiên nhiên và kết nối tâm hồn

Khơi dậy hành động xanh

Những cánh rừng trở thành lá chắn tự nhiên không thể thiếu để bảo vệ trái đất. Trồng rừng giờ đây không chỉ là hoạt động sinh thái mà đã trở thành phương pháp giáo dục trải nghiệm đầy cảm hứng.

“Thiên nhiên không chỉ là nơi chúng ta tận hưởng mà là nơi để học cách sống tử tế hơn với chính mình và Trái đất” – lời chia sẻ đầy cảm xúc của Đào Hiền – Á hậu 1 Miss World Vietnam 2023.

Nhiều tổ chức cũng triển khai các chương trình trồng rừng ý nghĩa. Tháng 2/2025, Tổ chức quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên tại Việt Nam (WWF) phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng Panasonic trồng 10.000 cây đước tại Thái Bình.

Giáo dục trải nghiệm thông qua trồng rừng

Trồng rừng đang dần trở thành kênh giáo dục xã hội đa tầng. Những hoạt động này không chỉ lan tỏa nhận thức mà còn tạo lực đẩy cho một thế hệ mới với những công dân xanh.

“Không phải chiến dịch ngắn hạn, mô hình trồng rừng của Gaia được thiết kế như một chuỗi giáo dục bền vững. Chúng tôi không chỉ trồng xong là xong, mà sẽ chăm sóc rừng từ 2 – 6 năm, đảm bảo cây phát triển, tạo sinh cảnh bền vững cho động vật hoang dã”.

]]>
Khám phá bí ẩn của hàng trăm virus khổng lồ ẩn náu dưới đại dương https://doisongvanhoa.net/kham-pha-bi-an-cua-hang-tram-virus-khong-lo-an-nau-duoi-dai-duong/ Wed, 18 Jun 2025 04:34:22 +0000 https://doisongvanhoa.net/?p=14970

Các nhà khoa học vừa công bố một khám phá đột phá về sự tồn tại của 230 virus khổng lồ, còn gọi là giruses, ẩn mình trong các mẫu nước biển trên khắp thế giới. Đây là những chủng virus hoàn toàn mới đối với khoa học.

Khám phá mới về virus khổng lồ dưới đại dương

Thông thường, hầu hết các virus có kích thước từ 20 đến 200 nanomet (nm). Tuy nhiên, những virus khổng lồ này có thể dài tới hơn 1.000 nm, thậm chí có loại như Pithovirus đạt 1.500 nm, tương đương vi khuẩn về kích cỡ.

Đáng chú ý, nhiều virus trong nhóm này chứa lượng vật liệu di truyền lớn gấp 100 lần so với virus thông thường. Một số mang các gene thường chỉ xuất hiện ở sinh vật có tế bào, như các gene liên quan đến trao đổi carbon và quang hợp.

Một đợt nhiễm virus khổng lồ ở tảo đơn bào Florenciella

Một đợt nhiễm virus khổng lồ ở tảo đơn bào Florenciella


“Virus khổng lồ có thể điều khiển mạnh mẽ quá trình trao đổi chất của vật chủ trong suốt thời gian nhiễm bệnh, từ đó ảnh hưởng đáng kể đến chu trình sinh học trong đại dương,” ông Benjamin Minch, tác giả nghiên cứu thuộc Đại học Miami, cho biết.

Trong môi trường biển, các virus khổng lồ thường tấn công tảo đơn bào – sinh vật quang hợp tạo ra khoảng 50% lượng oxy trên Trái Đất. Việc các virus này gây sụp đổ nhanh chóng các hiện tượng “nở hoa tảo” quy mô lớn có thể tác động mạnh đến hệ sinh thái đại dương, khí quyển và đất liền.

Phần lớn virus khổng lồ được phát hiện thuộc 2 nhóm chính là Algavirales (135 chủng) và Imitervirales (81 chủng). Algavirales chuyên tấn công tảo đơn bào, trong khi Imitervirales có cấu trúc gene linh hoạt giúp tồn tại trong nhiều loại vật chủ khác nhau.

Các nhà khoa học phát hiện 108 chủng đến từ biển Baltic, 65 chủng từ Nam Cực, ngoài ra còn có các mẫu từ Bắc Cực, Nam Thái Bình Dương, Bắc Đại Tây Dương, biển Sargasso và vịnh Jangmok của Hàn Quốc.

Tổng thể, dữ liệu cho thấy các vùng biển lạnh là nơi có mật độ virus khổng lồ cao hơn. Tuy nhiên, hiện tượng biến đổi khí hậu có thể đe dọa đến sự tồn tại của các virus thích nghi với lạnh này, đặt ra nhiều vấn đề sinh thái chưa có lời giải.

Để xác định các bộ gene của virus, nhóm nghiên cứu đã sử dụng công cụ phần mềm BEREN để phân tích các mẫu vi sinh vật trong nước biển. Nghiên cứu này được công bố trên tạp chí Nature npj Viruses.

“Chúng tôi đã xây dựng một khung nền để cải tiến các công cụ phát hiện virus mới. Việc này có thể giúp giám sát tốt hơn tình trạng ô nhiễm và mầm bệnh trong các nguồn nước,” ông Minch cho biết thêm.

]]>
Bí ẩn đằng sau hiện tượng đại dương tối dần https://doisongvanhoa.net/bi-an-dang-sau-hien-tuong-dai-duong-toi-dan/ Sat, 14 Jun 2025 20:01:22 +0000 https://doisongvanhoa.net/?p=13466

Trong hai thập kỷ qua, hơn 20% diện tích đại dương toàn cầu đã trở nên tối hơn, làm thu hẹp đáng kể vùng nước có đủ ánh sáng cho sự sống phát triển. Hiện tượng này đang đe dọa nghiêm trọng đến hệ sinh thái biển, chuỗi thức ăn và quá trình điều hòa khí hậu toàn cầu.

Đại dương đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng âm thầm nhưng nghiêm trọng. Sự thay đổi này không chỉ ảnh hưởng đến các loài sinh vật biển mà còn tác động đến toàn bộ hệ thống khí hậu của Trái đất.

Tác động của hiện tượng đại dương tối dần

Dựa trên dữ liệu vệ tinh và các mô hình tính toán hiện đại, các nhà nghiên cứu đã xác định được vùng nước nơi ánh sáng mặt trời và ánh trăng có thể xuyên thấu đã bị thu hẹp đáng kể. Từ năm 2003 đến 2022, hơn 20% diện tích đại dương trên thế giới ghi nhận mức độ giảm sáng đáng kể, tương đương tổng diện tích của châu Âu, châu Phi, Trung Quốc và Bắc Mỹ cộng lại.

TS Thomas Davies, chuyên gia bảo tồn biển tại Đại học Plymouth (Anh), nhận định: “Những phát hiện này là hồi chuông cảnh báo nghiêm trọng. Sự thay đổi không chỉ đe dọa các hệ sinh thái dưới nước mà còn có thể gây rối loạn chu trình chuyển hóa carbon và dinh dưỡng thiết yếu trong đại dương, cũng như tác động đến ngành thủy sản toàn cầu”.

Khu vực sinh sống thu hẹp đe dọa sinh vật biển

Khu vực sinh sống thu hẹp đe dọa sinh vật biển.

Nguyên nhân và hậu quả

Nguyên nhân khiến đại dương tối dần một phần đến từ việc ánh sáng khó xuyên qua lớp nước, đặc biệt tại các khu vực ven bờ. Tuy nhiên, tại các vùng xa bờ, hiện tượng này dường như có liên hệ với biến đổi khí hậu toàn cầu và những thay đổi trong dòng hải lưu.

“Các khu vực như Nam Đại Dương hay dọc theo Dòng hải lưu Gulf Stream qua Greenland đang ghi nhận tốc độ tối dần rõ rệt, có khả năng do sự ấm lên và thay đổi tuần hoàn đại dương”, TS Davies cho biết.

Khi độ sâu của vùng sáng giảm khoảng 50m trên diện rộng, các loài phụ thuộc vào ánh sáng buộc phải tiến gần hơn tới mặt nước. Đó là nơi không gian sống vốn đã đông đúc, tài nguyên khan hiếm và cạnh tranh sinh tồn trở nên khốc liệt. Điều này có thể dẫn đến những thay đổi căn bản trong cấu trúc và chức năng của toàn bộ hệ sinh thái biển.

Thách thức và triển vọng

GS Oliver Zielinski, Giám đốc Viện Nghiên cứu Biển Baltic Leibniz (Đức) bày tỏ lo ngại: “Hiện tượng đại dương tối đi là một xu hướng đáng báo động. Nó có thể phá vỡ cấu trúc chuỗi thức ăn biển, làm thay đổi sự phân bố loài và suy giảm vai trò của đại dương trong việc bảo vệ đa dạng sinh học cũng như điều hòa khí hậu toàn cầu”.

Ông đặc biệt nhấn mạnh đến tầm quan trọng của các vùng biển ven bờ, nơi chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các hoạt động của con người và có vai trò thiết yếu đối với hệ sinh thái cũng như đời sống. Việc duy trì khả năng phục hồi của những vùng biển này sẽ là yếu tố then chốt để đảm bảo sức khỏe sinh thái và phúc lợi nhân loại trong tương lai.

]]>