Bản sắc văn hóa – Doisongvanhoa.net https://doisongvanhoa.net Trang thông tin đời sống văn hóa Wed, 24 Sep 2025 01:35:08 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doisongvanhoa/2025/08/Kinhtethegioi-1.svg Bản sắc văn hóa – Doisongvanhoa.net https://doisongvanhoa.net 32 32 Giữ tiếng Việt qua 4 thế hệ: Tự hào văn hóa trong lòng Lào https://doisongvanhoa.net/giu-tieng-viet-qua-4-the-he-tu-hao-van-hoa-trong-long-lao/ Wed, 24 Sep 2025 01:35:04 +0000 https://doisongvanhoa.net/giu-tieng-viet-qua-4-the-he-tu-hao-van-hoa-trong-long-lao/

Ở thủ đô Vientiane của Lào, một gia đình nhỏ đã âm thầm giữ gìn và truyền lại tiếng Việt qua 4 thế hệ, như một dòng chảy văn hóa không bao giờ cạn. Đó là gia đình bà Nguyễn Thị Nương, một người phụ nữ gốc Việt 97 tuổi, người đã dành cả cuộc đời để bảo tồn tiếng mẹ đẻ và văn hóa Việt tại xứ người.

Bà Nương sinh ra và lớn lên trong một thời kỳ đầy biến động, cùng gia đình định cư tại Lào và xây dựng cuộc sống mới. Dù sống giữa một cộng đồng đa văn hóa, nhưng trong căn nhà nhỏ của bà, tiếng Việt vẫn luôn được nói và yêu thương. “Các cháu đi học thì tự nhiên biết tiếng Lào nhưng về nhà là phải nói tiếng Việt. Bố mẹ, vợ chồng, con cái, ai cũng phải nói tiếng Việt hết. Không cho nói tiếng Lào trong nhà, thế nên các cháu không đứa nào nói ngọng. Biết hết tiếng Việt!” – bà Nương chia sẻ với giọng nói chậm rãi nhưng đầy tự hào.

Không chỉ tập trung vào việc giữ gìn ngôn ngữ, gia đình bà Nương còn kiên trì bảo tồn văn hóa Việt qua những phong tục, tập quán truyền thống. Từ những bữa ăn gia đình với lời mời “Mời ông bà, mời bố mẹ…” đến những nghi lễ cổ truyền như giỗ, Tết hay cả Tết Đoan Ngọ mồng 5/5 với tục “giết sâu bọ,” mọi tập tục đều được giữ vẹn nguyên.

Ở tuổi 97, bà Nương vẫn minh mẫn và sống trong tình yêu thương của con cháu. Con cháu bà không chỉ học được tiếng Việt mà còn học cả cách sống, cách làm người theo đúng cốt cách người Việt Nam. “Tôi gìn giữ tiếng Việt vì đó là tiếng của mẹ đẻ, của quê hương, đất nước. Xa quê hương, mình càng không thể để mất” – bà nói. Sự kiên định ấy đã được truyền lại qua các thế hệ như một dòng chảy không bao giờ cạn.

Cháu ngoại của bà, chị Phạm Thu Hương, cũng chia sẻ về việc gia đình chị đã ở Lào 4 đời. Ông bà ngoại và cha mẹ chồng của chị là bạn chiến đấu với nhau từ thời chiến tranh. Các con chị đều nói và viết được tiếng Việt. “Muốn gìn giữ gốc tiếng Việt cho thế hệ trẻ, mọi người trong gia đình đều phải có quyết tâm lớn, giữ gìn truyền thống, phong tục và dành thời gian dài vun đắp” – chị Hương nói.

Anh Trần Viết Thanh Phong, con trai chị Hương và là chắt ngoại của bà Nương, cho biết anh biết nói tiếng Việt từ khi còn nhỏ. Ba mẹ anh dạy rằng mình là người Việt thì phải gìn giữ văn hóa và tiếng nói của người Việt. “Trong thời đại toàn cầu hóa, việc biết nhiều thứ tiếng là một lợi thế nhưng giữ được cái gốc mới là điều quan trọng nhất. Phải nhớ mình là người Việt và nói được tiếng Việt” – anh Phong chia sẻ.

Gia đình bà Nương không phải là trường hợp duy nhất nhưng là một trong những ví dụ điển hình tiêu biểu về việc gìn giữ tiếng Việt nơi xứ người. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, văn hóa và ngôn ngữ dễ dàng bị hòa tan thì việc một gia đình có 4 thế hệ sinh sống tại Lào nhưng vẫn giữ được sự tinh anh, chuẩn mực của tiếng Việt là điều vô cùng đáng quý.

Bởi ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp mà còn là cầu nối tâm hồn, là nơi lưu giữ ký ức, văn hóa và cội nguồn dân tộc. Câu chuyện về gia đình bà Nguyễn Thị Nương ở Vientiane là một bản nhạc đẹp về tình yêu tiếng Việt, tình yêu văn hóa cội nguồn, và là minh chứng sống động cho sức sống mãnh liệt của văn hóa Việt, được nuôi dưỡng bằng tình yêu và ý chí qua từng thế hệ.

Hãy cùng tìm hiểu thêm về các câu chuyện khác về việc gìn giữ tiếng Việt tại Lào và những nỗ lực của cộng đồng người Việt ở nước ngoài trong việc bảo tồn văn hóa và ngôn ngữ của mình.

]]>
Khánh Hòa phát triển du lịch bền vững gắn với bảo tồn văn hóa và sinh kế cộng đồng https://doisongvanhoa.net/khanh-hoa-phat-trien-du-lich-ben-vung-gan-voi-bao-ton-van-hoa-va-sinh-ke-cong-dong/ Tue, 09 Sep 2025 03:04:59 +0000 https://doisongvanhoa.net/khanh-hoa-phat-trien-du-lich-ben-vung-gan-voi-bao-ton-van-hoa-va-sinh-ke-cong-dong/

Khánh Hòa – Một điểm đến lý tưởng với tiềm năng du lịch và kinh tế biển

Khánh Hòa, một tỉnh ven biển thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ, đã nổi lên như một điểm đến lý tưởng cho du khách trong và ngoài nước. Sự kết hợp giữa núi, rừng, biển, đảo, đồng bằng và đặc khu Trường Sa thiêng liêng của Tổ quốc đã tạo nên một bức tranh đa dạng và phong phú cho tỉnh Khánh Hòa. Với đường bờ biển dài gần 400km, khí hậu ôn hòa quanh năm, hàng trăm đảo lớn nhỏ, hệ thống vịnh đẹp hàng đầu thế giới và di sản văn hóa Chăm đặc sắc, Khánh Hòa sở hữu những lợi thế thiên phú hiếm có.

Sau khi sáp nhập theo Nghị quyết số 202 của Quốc hội, tỉnh Khánh Hòa mới đã trở thành địa phương duy nhất có tới 3 sân bay, 4 vịnh biển đẳng cấp quốc tế, 590km bờ biển và hơn 7.600ha san hô – tiềm năng vô giá để phát triển du lịch biển và lặn biển chuyên nghiệp. Hệ thống giao thông đa chiều kết nối từ đường bộ, đường sắt, hàng không đến các cảng biển quốc tế đã đưa Khánh Hòa trở thành trung tâm logistics và trung chuyển du lịch quốc tế phía Nam.

Du lịch đã trở thành động lực tăng trưởng kinh tế của tỉnh, với gần 30 triệu lượt khách trong giai đoạn 2022-2024, trong đó có hơn 7,6 triệu lượt khách quốc tế, tổng thu từ du lịch đạt hơn 109 nghìn tỉ đồng. Hạ tầng lưu trú phát triển mạnh với 1.444 cơ sở, hơn 71.000 phòng, với 106 cơ sở đạt chuẩn 3-5 sao. Đội ngũ hướng dẫn viên du lịch cũng đã được đào tạo chuyên nghiệp với 2.434 người, trong đó có hơn 1.499 thẻ quốc tế.

Tỉnh Khánh Hòa đang hướng đến mục tiêu trở thành đô thị du lịch thông minh, phát triển bền vững. Với sự đa dạng hóa sản phẩm du lịch, tỉnh đã tạo ra nhiều mô hình du lịch cộng đồng như làng nghề xoi trầm Vạn Thắng, làng du lịch cộng đồng thôn Hòn Dung (Khánh Sơn) hay điểm du lịch cộng đồng Ninh Vân (Ninh Hòa). Những mô hình này không chỉ góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa mà còn tạo sinh kế cho người dân địa phương.

Theo lãnh đạo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Khánh Hòa, địa phương đang sở hữu một kho tàng di sản quý giá không chỉ về kiến trúc, nghệ thuật Chăm mà còn về đa dạng sinh học và nghệ thuật dân gian. Tỉnh đặt mục tiêu trở thành trung tâm du lịch văn hóa hàng đầu, nơi du khách có thể đắm mình trong chiều sâu lịch sử, khám phá giá trị văn hóa đích thực và trải nghiệm sự mến khách của người dân.

Bí thư Tỉnh ủy Khánh Hòa Nghiêm Xuân Thành đánh giá rằng việc sáp nhập Khánh Hòa và Ninh Thuận mang tầm nhìn chiến lược về không gian phát triển, lợi thế so sánh và sức mạnh nội sinh, nhằm đánh thức tiềm năng, hiện thực hóa vận hội to lớn của vùng duyên hải Nam Trung Bộ. Với những lợi thế và tiềm năng sẵn có, Khánh Hòa đang trở thành điểm đến lý tưởng cho du khách và là trung tâm du lịch văn hóa hàng đầu của Việt Nam.

]]>
Phát triển du lịch Đồng bằng sông Cửu Long: Cần chiến lược đồng bộ https://doisongvanhoa.net/phat-trien-du-lich-dong-bang-song-cuu-long-can-chien-luoc-dong-bo/ Sat, 06 Sep 2025 12:20:22 +0000 https://doisongvanhoa.net/phat-trien-du-lich-dong-bang-song-cuu-long-can-chien-luoc-dong-bo/

Sau khi hợp nhất, vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) sẽ bao gồm 5 tỉnh, thành phố là Cà Mau, An Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long và Đồng Tháp. Với thế mạnh về tài nguyên miệt vườn, sông nước, biển, đảo, hệ thống danh lam, thắng cảnh, di sản văn hóa phong phú và bản sắc văn hóa độc đáo, du lịch vùng ĐBSCL được kỳ vọng sẽ có bước chuyển mình mạnh mẽ.

Du lịch đồng bằng sông Cửu Long được đặt nhiều kỳ vọng sau hợp nhất tỉnh.
Du lịch đồng bằng sông Cửu Long được đặt nhiều kỳ vọng sau hợp nhất tỉnh.

Quá trình hợp nhất không gian du lịch ở mỗi tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL đã được mở rộng. Các kết nối liên vùng, nội tỉnh trở nên linh hoạt và hiệu quả hơn, giúp việc xây dựng tour, tuyến thuận lợi hơn, mang đến cho du khách hình ảnh ĐBSCL mới mẻ hơn, hấp dẫn hơn. Sự phân vùng không chỉ giúp tránh chồng lấn sản phẩm mà còn tạo điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch chuyên sâu và bài bản hơn để thu hút du khách.

Tuy nhiên, dù các tỉnh, thành phố ĐBSCL đã chú trọng công tác liên kết, hợp tác phát triển du lịch, vẫn còn thực trạng ‘mạnh ai nấy làm’ dẫn đến rời rạc, thiếu tính kết nối. Do đó, sản phẩm du lịch vùng này có sự trùng lắp, thiếu chiều sâu và gây khó khăn cho doanh nghiệp trong xây dựng các tour liên tỉnh.

Các chuyên gia du lịch khẳng định, hợp nhất tỉnh là dịp để tái tổ chức ngành du lịch theo hướng chuyên nghiệp hơn. Tuy nhiên, để phát triển du lịch ĐBSCL bền vững cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp chiến lược như đầu tư phát triển hạ tầng du lịch hiện đại, đồng bộ từ việc cải thiện hệ thống giao thông liên vùng; ứng dụng công nghệ số trong quản lý điểm đến, chỉ dẫn thông minh và quảng bá du lịch; định vị và phát triển sản phẩm du lịch đặc thù gắn với bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa vùng; tăng cường xúc tiến, quảng bá du lịch quy mô vùng…

Đặc biệt là đào tạo nguồn nhân lực qua các lớp đào tạo, tập huấn nhân lực du lịch theo chuẩn quốc tế, chú trọng ngoại ngữ, kỹ năng phục vụ và văn hóa ứng xử. Ngoài ra, cần xây dựng và tăng cường cơ chế phối hợp liên kết giữa các tỉnh, thành phố thông qua các hội đồng liên kết và hệ thống thông tin chung để tạo thống nhất trong phát triển sản phẩm du lịch.

Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hiệp khẳng định, du lịch ĐBSCL cần có ‘nhạc trưởng’ điều phối để sản phẩm tránh trùng lắp và công tác liên kết du lịch phát huy sức mạnh tổng lực. Công tác liên kết phát triển du lịch ngoài chính quyền cần hướng đến liên kết thị trường, liên kết giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp và cơ quan truyền thông, quảng bá hình ảnh, thương hiệu du lịch theo hướng phát triển các chuỗi giá trị, sản phẩm du lịch đặc thù…, từ đó có phân công rõ trong liên kết, phát huy lợi thế, khắc phục hạn chế, chia sẻ lợi ích, phát triển bền vững.

Giám đốc Sở Du lịch Bùi Quốc Thái cho biết, việc thay đổi địa giới hành chính mở ra cơ hội tái cấu trúc mang tính chiến lược, các địa phương có thể dễ dàng phối hợp hơn trong quản lý tài nguyên du lịch, kết nối hạ tầng và tổ chức tour, tuyến đồng bộ, từ đó tạo ra chuỗi giá trị du lịch liên hoàn, hấp dẫn và bền vững.

]]>
Tú Lệ – điểm đến du lịch đa dạng sau hợp nhất xã https://doisongvanhoa.net/tu-le-diem-den-du-lich-da-dang-sau-hop-nhat-xa/ Sat, 30 Aug 2025 17:20:57 +0000 https://doisongvanhoa.net/tu-le-diem-den-du-lich-da-dang-sau-hop-nhat-xa/

Sau khi hợp nhất hai xã Cao Phạ và Tú Lệ, xã Tú Lệ mới đã trở thành một điểm đến du lịch hấp dẫn với nhiều tiềm năng phát triển. Nơi đây không chỉ có sản phẩm du lịch cộng đồng, nghỉ dưỡng cao cấp mà còn có du lịch khoáng nóng, dù lượn và nhiều hoạt động thú vị khác. Sự kết hợp giữa hai xã đã tạo ra những tour du lịch trọn gói đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách.

Bản Liền bắt “trend” trải nghiệm đúng chất “Gia đình Haha” để phát triển du lịch
Bản Liền bắt “trend” trải nghiệm đúng chất “Gia đình Haha” để phát triển du lịch

Trong những năm qua, hai xã Tú Lệ và Cao Phạ đã chung mục tiêu đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Chính quyền địa phương đã khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng và phát triển các sản phẩm du lịch cùng hệ sinh thái dịch vụ đi kèm. Việc này không chỉ giúp tăng cường cơ sở hạ tầng du lịch mà còn góp phần quảng bá vẻ đẹp văn hóa và thiên nhiên của địa phương.

Hà Nội sắp ra mắt đoàn tàu du lịch hai tầng
Hà Nội sắp ra mắt đoàn tàu du lịch hai tầng

Xã Cao Phạ đã có những bước đi cụ thể trong việc phối hợp với tổ chức KPF để tuyên truyền và vận động người dân tham gia làm du lịch. Đồng thời, xã cũng định hướng người dân xây dựng sản phẩm và dịch vụ du lịch theo hướng lấy bản sắc văn hóa địa phương làm điểm nhấn. Điều này không chỉ giúp du lịch địa phương trở nên đặc sắc hơn mà còn tạo ra những trải nghiệm độc đáo cho du khách.

Tại bản Tà Dông, khu cắm trại KoongHill đã được xây dựng với 13 điểm cắm trại, mang đến cho du khách những trải nghiệm gần gũi với thiên nhiên. Người dân trong bản đã được hướng dẫn và đào tạo để vận hành khu cắm trại này, giúp họ có thêm nguồn thu nhập từ du lịch. Tại bản Tà Sung, 4 gia đình người Thái đã được hỗ trợ thiết kế và xây dựng homestay, góp phần tăng cường cơ sở lưu trú cho du khách.

Sự quan tâm của hệ thống chính trị và nỗ lực không ngừng của người dân đã thúc đẩy du lịch tại Tú Lệ phát triển mạnh mẽ. Hiện nay, Tú Lệ có khí hậu trong lành, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp và nhiều điểm đến hấp dẫn, thu hút sự quan tâm của du khách. Các tổ hợp lưu trú – ăn uống – vui chơi – check-in đã được đầu tư xây dựng, đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách.

Hiện, xã Tú Lệ có 32 cơ sở lưu trú, trong đó 27 homestay và khách sạn đã đủ điều kiện hoạt động, sẵn sàng đón tiếp du khách. Hằng năm, xã đón khoảng 200.000 lượt khách du lịch trong và ngoài nước. Việc hợp nhất hai xã đã giúp tối ưu hóa nguồn lực, phát triển cơ sở hạ tầng đồng bộ và tạo ra những sản phẩm du lịch liên vùng, góp phần tăng cường sức cạnh tranh của du lịch địa phương.

Tới đây, xã sẽ xây dựng kế hoạch xây dựng mô hình phát triển du lịch cộng đồng gắn với cải thiện sinh kế bền vững cho người dân. Xã phấn đấu đón trên 300.000 lượt du khách và đạt doanh thu trên 100 tỷ đồng trong năm nay. Với những bước đi cụ thể và sự quyết tâm của chính quyền địa phương cùng người dân, du lịch Tú Lệ hứa hẹn sẽ tiếp tục là điểm sáng trong ngành du lịch của tỉnh, góp phần vào sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.

]]>
Cao đẳng Đà Nẵng: Đa ngành, hiện đại và giàu bản sắc https://doisongvanhoa.net/cao-dang-da-nang-da-nganh-hien-dai-va-giau-ban-sac/ Sun, 24 Aug 2025 06:20:28 +0000 https://doisongvanhoa.net/cao-dang-da-nang-da-nganh-hien-dai-va-giau-ban-sac/

Trường Cao đẳng Đà Nẵng – Cơ sở Đào tạo Đa Ngành, Đa Lĩnh Vực Trong Thời Kỳ Mới

Ông Hồ Viết Hà - Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Đà Nẵng.
Ông Hồ Viết Hà – Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Đà Nẵng.

Sau quá trình sáp nhập, Trường Cao đẳng Đà Nẵng đã trở thành một cơ sở đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực với sức mạnh tổng hợp từ kỹ thuật công nghệ đến văn hóa nghệ thuật. Đây là bước chuyển mình chiến lược để trở thành một trường cao đẳng hiện đại và giàu bản sắc. Ông Hồ Viết Hà, Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Đà Nẵng, đã chia sẻ về những thách thức và cơ hội để đổi mới, kết nối và khẳng định vị thế của trường.

Sinh viên ngành văn hóa nghệ thuật trong kỳ thi tốt nghiệp.
Sinh viên ngành văn hóa nghệ thuật trong kỳ thi tốt nghiệp.

Một trong những thách thức lớn nhất sau sáp nhập là tạo sự thống nhất và đoàn kết trong nội bộ. Để giải quyết vấn đề này, nhà trường đã xác định ổn định tư tưởng và tổ chức là nhiệm vụ then chốt. Các buổi họp giao ban, hội nghị, trao đổi nội bộ được tổ chức thường xuyên để lắng nghe, chia sẻ và giải đáp kịp thời những vướng mắc của cán bộ, giảng viên và nhân viên. Việc bố trí cán bộ quản lý ở các khoa, phòng, trung tâm theo đề án sáp nhập được UBND TP Đà Nẵng phê duyệt cũng được thực hiện một cách công khai, minh bạch và dựa trên năng lực, chuyên môn phù hợp với từng vị trí.

Sinh viên trong tiết học thực hành.
Sinh viên trong tiết học thực hành.

Ngoài ra, nhà trường cũng chú trọng đến yếu tố hài hòa, không để xảy ra tình trạng bên này “áp” bên kia, mà thay vào đó là phối hợp, cùng xây dựng. Mỗi đơn vị, phòng ban sau sáp nhập có đại diện từ cả hai trường trước đây. Tâm lý của giảng viên, giáo viên được quan tâm, chia sẻ bởi nhà trường hiểu rằng, chỉ khi cán bộ yên tâm công tác, chất lượng đào tạo mới đảm bảo. Trong thời gian tới, nhà trường sẽ đẩy mạnh các hoạt động chung như hội thao, văn nghệ, tập huấn chuyên môn liên ngành… để tăng tính kết nối giữa các đơn vị, từ đó tạo sự gắn bó, chia sẻ và dần hình thành văn hóa chung.

Giờ thực hành ngành kỹ thuật.
Giờ thực hành ngành kỹ thuật.

Với mục tiêu tạo ra thế hệ vừa giỏi nghề, vừa giàu cảm xúc và nhân văn, nhà trường đã định hướng xây dựng môi trường giáo dục toàn diện, lấy sinh viên làm trung tâm và hướng tới phát triển hài hòa các yếu tố đức – trí – thể – mỹ. Về đạo đức, nhà trường chú trọng giáo dục tư tưởng, lối sống, tác phong công nghiệp và ý thức nghề nghiệp cho sinh viên. Về trí tuệ, trường tiếp tục đổi mới chương trình đào tạo theo hướng gắn kết chặt chẽ với thực tiễn, nâng cao chất lượng dạy học, tăng cường ứng dụng công nghệ, kỹ thuật vào giảng dạy.

Về thẩm mỹ, với tiền thân từ Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật, nhà trường có thế mạnh trong việc tổ chức hoạt động văn hóa – nghệ thuật. Nhà trường sẽ phát huy truyền thống này bằng cách đưa các hoạt động biểu diễn, mỹ thuật, sáng tác vào đời sống học đường; giúp sinh viên có tinh thần phong phú, phát triển cảm xúc và gu thẩm mỹ trong học tập lẫn cuộc sống. Đặc biệt, nhà trường cũng có định hướng hỗ trợ các trường phổ thông trên địa bàn, nhất là trong bối cảnh thiếu giáo viên mỹ thuật, bằng cách tích cực đưa nội dung giáo dục âm nhạc, kỹ năng biểu diễn, thẩm mỹ nghệ thuật vào hoạt động ngoại khóa, câu lạc bộ, sinh hoạt chuyên đề trong trường.

Nhìn chung, Trường Cao đẳng Đà Nẵng đã sẵn sàng cho một thời kỳ mới với những thách thức và cơ hội để đổi mới, kết nối và khẳng định vị thế của mình. Với sự đồng hành của ngành Giáo dục, Văn hóa và chính quyền địa phương, nhà trường hy vọng sẽ trở thành hạt nhân hỗ trợ lan tỏa tinh thần yêu nghệ thuật, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu cho học sinh từ sớm.

]]>
Thanh Hóa phát triển du lịch cộng đồng bền vững gắn bảo vệ môi trường https://doisongvanhoa.net/thanh-hoa-phat-trien-du-lich-cong-dong-ben-vung-gan-bao-ve-moi-truong/ Sat, 23 Aug 2025 20:20:36 +0000 https://doisongvanhoa.net/thanh-hoa-phat-trien-du-lich-cong-dong-ben-vung-gan-bao-ve-moi-truong/

Tháng 7 với nắng oi ả đang khiến nhiều người tìm kiếm không gian xanh mát để ‘trốn hè’. Tỉnh Thanh Hóa, với sự kết hợp hoàn hảo giữa thiên nhiên, văn hóa và bản sắc độc đáo, đã nổi lên như một điểm đến lý tưởng. Trong 6 tháng đầu năm 2025, ngành du lịch Thanh Hóa đã có sự phục hồi ấn tượng, khẳng định vai trò là một động lực kinh tế mũi nhọn. Đặc biệt, du lịch cộng đồng gắn với kinh tế xanh đang trở thành hướng đi quan trọng.

Suối cá Cẩm Lương thu hút đông đảo du khách đến tham quan, tìm hiểu.
Suối cá Cẩm Lương thu hút đông đảo du khách đến tham quan, tìm hiểu.

Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo Phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa, trong 6 tháng đầu năm, toàn tỉnh đã đón gần 10,5 triệu lượt khách, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Tổng thu từ du lịch đạt 26.300 tỷ đồng, tăng tới 32,8%. Thanh Hóa hiện có 76 dự án du lịch đang vận hành hoặc triển khai với tổng vốn đầu tư gần 152.000 tỷ đồng.

Từ Bản Mạ đến Pù Luông: Du lịch cộng đồng đưa xứ Thanh vươn mình xanh
Từ Bản Mạ đến Pù Luông: Du lịch cộng đồng đưa xứ Thanh vươn mình xanh

Tỉnh Thanh Hóa đã xác định ba dòng sản phẩm chiến lược cần tiếp tục phát triển gồm: du lịch biển, du lịch văn hóa – lịch sử – tâm linh và du lịch sinh thái – cộng đồng. Trong đó, du lịch cộng đồng miền núi đang được đánh giá là ‘điểm sáng mới’, mang lại giá trị cả về kinh tế lẫn bảo tồn văn hóa, sinh thái.

Với hơn 8.000 km² diện tích miền núi, Thanh Hóa sở hữu hệ sinh thái phong phú và đa dạng. Khu bảo tồn thiên nhiên như Pù Luông, Pù Hu, Xuân Liên… là nơi bảo tồn nhiều loài động, thực vật quý hiếm. Không chỉ có cảnh quan hùng vĩ, khí hậu trong lành, nơi đây còn là mái nhà chung của hơn 7 dân tộc thiểu số.

Nhiều điểm đến xanh đã gây ấn tượng mạnh như bản Mạ, bản Ngàm, làng Lúng, suối cá thần Cẩm Lương… Du khách đến đây không chỉ để chiêm ngưỡng thiên nhiên, mà còn được sống trong môi trường bản địa, thưởng thức ẩm thực dân tộc, hòa mình vào các hoạt động nông nghiệp, văn nghệ và lễ hội truyền thống.

Chị Lê Thị Tuyết – chủ khu nghỉ dưỡng ở Pù Luông chia sẻ: ‘Chúng tôi làm du lịch cộng đồng nên chú trọng tối đa vào bảo tồn thiên nhiên, bản sắc dân tộc. Các công trình đều làm bằng gỗ, sử dụng vật liệu thân thiện với môi trường. 100% nhân viên cũng là người dân tộc Thái bản địa’.

Điểm đặc biệt của du lịch cộng đồng ở xứ Thanh là sự gắn bó chặt chẽ giữa trải nghiệm của du khách và đời sống văn hóa – tâm linh và lao động của người dân địa phương. Du khách có thể tham gia gặt lúa, trồng rau, nấu ăn cùng người bản địa; nghe kể chuyện cổ, tham gia lễ hội…

Tuy đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng ngành du lịch Thanh Hóa vẫn đối diện với một số thách thức như thiếu mặt bằng sạch, tiến độ chậm ở một số dự án, nhân lực chưa đồng bộ, cơ cấu thị trường khách chưa đều.

Để tháo gỡ, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Nguyễn Văn Thi yêu cầu các cơ quan liên quan tiếp tục kiện toàn bộ máy quản lý, nâng cao chất lượng sản phẩm, thúc đẩy du lịch theo hướng chuyên nghiệp và bền vững. Trọng tâm là hỗ trợ người dân phát triển homestay, xây dựng tour du lịch xanh, ứng dụng công nghệ trong quảng bá…

Thanh Hóa còn chú trọng gìn giữ bản sắc văn hóa, chìa khóa then chốt của phát triển du lịch cộng đồng. Như ông Hà Nam Khánh là người tiên phong du lịch cộng đồng tại Bá Thước khẳng định: ‘Điều làm nên thành công lâu dài chính là sự tôn trọng và phát huy giá trị văn hóa dân tộc. Du khách không chỉ nghỉ ngơi mà còn sống cùng người bản địa, hiểu và yêu vùng đất này’.

Du lịch cộng đồng không còn là ‘phụ trợ’ mà đang trở thành ‘hạt nhân’ trong chiến lược phát triển du lịch xanh của tỉnh Thanh Hóa. Không chỉ giúp người dân miền núi cải thiện sinh kế, du lịch cộng đồng còn là cầu nối lan tỏa văn hóa, bảo vệ môi trường và gìn giữ bản sắc trước làn sóng hiện đại hóa.

Với định hướng đúng đắn, sự đồng hành của người dân và doanh nghiệp, ‘xứ Thanh’ đang từng bước biến mỗi ‘điểm dừng chân’ trở thành ‘điểm đến xanh’ ấn tượng trên bản đồ du lịch quốc gia.

]]>
Người đàn ông Khmer tự chế tạo nhạc cụ truyền thống để gìn giữ bản sắc dân tộc https://doisongvanhoa.net/nguoi-dan-ong-khmer-tu-che-tao-nhac-cu-truyen-thong-de-gin-giu-ban-sac-dan-toc/ Mon, 04 Aug 2025 08:50:15 +0000 https://doisongvanhoa.net/nguoi-dan-ong-khmer-tu-che-tao-nhac-cu-truyen-thong-de-gin-giu-ban-sac-dan-toc/

Ở xã Ngọc Tố, thành phố Cần Thơ, anh Lý Minh Tâm, 27 tuổi, người dân tộc Khmer, đã và đang âm thầm gìn giữ âm sắc truyền thống từ nhạc ngũ âm trong đời sống văn hóa, tinh thần của đồng bào Khmer. Với tình yêu sâu sắc đối với âm nhạc truyền thống, anh Tâm đã trở thành một phần quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc mình.

Anh Lý Minh Tâm biểu diễn trên nhạc cụ do mình tự làm
Anh Lý Minh Tâm biểu diễn trên nhạc cụ do mình tự làm

Sinh ra trong một gia đình yêu nghệ thuật truyền thống Khmer, anh Tâm đã được nuôi dưỡng bằng những âm thanh ngũ âm vang lên từ ngôi chùa trong phum sóc từ nhỏ. Anh cho biết, bà và cha anh từng là nhạc công chơi các nhạc cụ Khmer trước đây, và chính họ đã truyền cảm hứng cho anh yêu mến các loại nhạc truyền thống dân tộc từ bé. Những âm thanh ấy đã in sâu vào ký ức của anh, và cứ mỗi lần ngồi xem các nghệ nhân, nhạc công hoà tấu, anh lại học theo và ao ước được chơi một lần.

Nhạc cụ Rôneat Thung do anh Tâm tự làm.
Nhạc cụ Rôneat Thung do anh Tâm tự làm.

Năm lên 11 tuổi, khi bạn bè cùng trang lứa còn mải chơi các trò chơi trẻ con, thì Tâm đã được tiếp xúc với dàn nhạc ngũ âm, loại nhạc cụ truyền thống Khmer được hợp thành bởi 5 bộ nhạc, được làm từ 5 loại chất liệu khác nhau tạo nên 5 âm sắc riêng biệt gồm: Bộ đồng, bộ sắt, bộ mộc, bộ hơi và bộ da. Với tình yêu sâu sắc, chỉ trong một thời gian ngắn, anh Tâm đã chơi thành thạo và được chọn vào đội nhạc ngũ âm của chùa Khmer tại địa phương, đồng thời được theo đoàn đi biểu diễn khắp nơi mỗi khi có lễ hội.

Theo anh Tâm, cảm giác được hòa mình vào những bản nhạc dân gian từ các nhạc cụ ngũ âm trong lễ hội truyền thống Khmer, như tết cổ truyền Chôl Chnaam Thmây, lễ Sene Đôn-ta, Lễ dâng y Kathina… hay mỗi lần được biểu diễn ở các lần tổ chức sự kiện đều khiến anh thấy mình là một phần của văn hóa dân tộc mình. Đó không chỉ là âm nhạc, mà còn là linh hồn của cộng đồng Khmer.

Không chỉ là người biểu diễn, khoảng 4 năm nay, anh Tâm còn trở thành người gieo mầm âm nhạc khi trực tiếp dạy nhạc ngũ âm cho các em nhỏ tại các chùa Khmer trong địa phương. Những lớp học diễn ra đều đặn vào các dịp nghỉ hè, buổi tối hay dịp cuối tuần, thu hút các em nhỏ, thanh thiếu niên Khmer yêu âm nhạc truyền thống tham gia. Anh Tâm cho biết, việc truyền dạy không chỉ giúp giữ gìn bản sắc văn hóa, mà còn giúp các em nhỏ có được kỹ năng và kiến thức về âm nhạc truyền thống.

Không chỉ dừng lại ở việc truyền dạy, anh Tâm còn nghiên cứu, tìm tòi về quy trình làm ra nhạc cụ ngũ âm. Từ việc chọn loại gỗ, tre phù hợp, xử lý mặt trống đến cân chỉnh âm thanh, tất cả đều được anh tỉ mỉ. Dù gặp không ít khó khăn do không có sách vở hay thầy chỉ dẫn, nhưng bằng sự tâm huyết, tình yêu nhạc cụ truyền thống, anh Tâm đã tự học tập, tự tìm hiểu và tự chế tác thành công 4 loại nhạc cụ trong dàn ngũ âm, gồm: Rôneat Ek, Rôneat Thung, Rôneat Đek và trống. Anh đã bán được nhiều nhạc cụ do anh tự làm cho các đội nhạc ngũ âm trong địa phương.

Giữa nhịp sống hiện đại ngày càng hối hả, việc một người trẻ dành trọn tâm huyết cho nhạc cụ truyền thống như anh Lý Minh Tâm đã giúp bản sắc Khmer không chỉ được gìn giữ, mà còn tiếp tục được lan tỏa bền vững trong cộng đồng dân tộc Khmer. Anh Tâm là một tấm gương sáng, một người đã và đang góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc mình.

Liên kết liên quan

]]>